Các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Rochester (RIT), Mỹ, đang phát triển diezen sinh học từ vi tảo được trồng trong nước thải. Dự án này có “độ xanh” gấp 2 lần vì tảo tiêu thụ nitrat và photphat và làm giảm vi khuẩn và các độc tố trong nước. Kết quả là xử lý được nước thải và cung cấp nhiên liệu sinh học triển vọng.
Nước thải đã lọc có thể được dẫn vào trong các hồ chứa tại các nhà máy xử lý trong khi diezen sinh học được cung cấp cho xe buýt, xe công trường và máy móc nông trại.
Tảo có nhiều ưu điểm. Tảo có giá thành rẻ và thời gian sinh trưởng nhanh hơn ngô trong khi đó ngô cần có đất giàu dinh dưỡng, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Tảo là sinh vật đơn giản hơn nhiều. Chúng sử dụng quá trình quang hợp để chuyển đổi ánh nắng mặt trời thành năng lượng. Chúng chỉ cần có nước trong các hồ hoặc bể nước để sinh trưởng, ánh nắng mặt trời và CO2.
Eric Lannan, học viên đang theo học thạc sỹ về kỹ thuật cơ khí tại RIT, cho rằng tảo là một nguồn nguyên liệu tái tạo sinh trưởng nhanh hơn so với cây ngô hoặc cây đậu tương. Nuôi trồng 1 mẻ tảo mất khoảng 7 ngày. Đây là nguồn nguyên liệu liên tục có thể bù đắp 50% tổng lượng khí mà chúng ta sử dụng cho thiết bị tiêu thụ diezen.
Thời tiết lạnh là một trở ngại đối với các nhiên liệu diezen sinh học.
Theo Jeff Lodge, PGS. về khoa học sinh học tại RIT, trở ngại lớn là diezen sinh học đông lại ở nhiệt độ cao hơn. Nếu nhiên liệu diezen quá lạnh, thì động cơ không khởi động được. Nhiên liệu đặc quánh lại. Vì vậy, có thể pha trộn nhiều loại diezen sinh học để tạo thành nhiên liệu diezen sinh học có điểm chảy (pour point) thuận lợi thì mới chảy dễ dàng.
Với sự giúp đỡ của Emily Young, cán bộ lâu năm về hóa học, các nhà nghiên cứu đã cô lập và chiết suất mỡ hoặc lipit có giá trị, tảo tạo ra một lượng nhỏ diezen sinh học được nhuộm màu vàng. Họ đang trồng chủng tảo Scenedesmus, một cơ quan đơn bào bằng cách sử dụng nước thải từ nhà máy xử lý nước thải Frank E. Van Lare ở Irondequoit, N.Y.
Tảo hấp thụ 99% amoniac, 88% nitrat và 99% photphat trong nước thải, đó là tất cả các dưỡng chất nguy hại đổ vào thủy vực tiếp nhận. Trong vòng từ 3-5 ngày, các mầm bệnh đều biến mất. Dữ liệu cho thấy, số lượng trực khuẩn ruột giảm đáng kể thấp hơn mức được phép đổ vào hồ Ontario.
Lodge và Lanna đã tăng sản lượng tảo từ 30 galong nước thải trong một phòng thí nghiệm tại RIT lên 100 galong trong một bể rộng 4 phút, dài 7 phút tại một spin-off của RIT. Vào mùa Xuân, các nhà nghiên cứu sẽ xây dựng một nhà kính di động tại nhà máy xử lý nước thải Irondequoit và tăng sản lượng lên 1.000 galong nước thải.
Công ty Northern Biodiesel nằm ở hạt Wayne sẽ lọc các lipit từ tảo và chuyển đổi chúng thành diezen sinh học cho các nhà nghiên cứu tại RIT.
Nguồn NASATI/Hoahocngaynay.com